Hỏi:
Bà Đỗ Thị Thủy Tiên (TPHCM) đề nghị cơ quan chức năng hướng dẫn tình huống sau:
Công ty X có người lao động nước ngoài làm việc từ tháng 7/2015 đến tháng 6/2016. Tháng 8/2016, Công ty hỗ trợ lao động này làm tờ khai quyết toán thuế thu nhập cá nhân (TNCN) năm thứ nhất với thời gian 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam (tháng 7/2015-6/2016). Người lao động đã nộp đầy đủ thuế theo tờ khai.
Tháng 3/2017, Công ty hỗ trợ cá nhân nộp tờ khai quyết toán thuế năm tính thuế thứ hai (tháng 1/2016-12/2016), trong đó có tính khoản khấu trừ hoặc tạm nộp trùng do quyết toán vắt năm. Bà Tiên đề nghị cơ quan chức năng hướng dẫn, hỗ trợ việc kê khai các chỉ tiêu trên tờ khai quyết toán thuế TNCN đối với trường hợp này.
Trả lời:
Căn cứ Điều 1, Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thuế TNCN:
“…1. Cá nhân cư trú là người đáp ứng một trong các điều kiện sau đây:
a) Có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch hoặc trong 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam, trong đó ngày đến và ngày đi được tính là một (1) ngày. Ngày đến và ngày đi được căn cứ vào chứng thực của cơ quan quản lý xuất nhập cảnh trên hộ chiếu (hoặc giấy thông hành) của cá nhân khi đến và khi rời Việt Nam. Trường hợp nhập cảnh và xuất cảnh trong cùng một ngày thì được tính chung là một ngày cư trú.
Cá nhân có mặt tại Việt Nam theo hướng dẫn tại điểm này là sự hiện diện của cá nhân đó trên lãnh thổ Việt Nam.
b) Có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam theo một trong hai trường hợp sau:…
2. Cá nhân không cư trú là người không đáp ứng điều kiện nêu tại khoản 1, Điều này”.
Tại Khoản 1, Điều 6 Thông tư số 111/2013/TT-BTC quy định về kỳ tính thuế:
“1. Đối với cá nhân cư trú
a) Kỳ tính thuế theo năm: áp dụng đối với thu nhập từ kinh doanh và thu nhập từ tiền lương, tiền công.
Trường hợp trong năm dương lịch, cá nhân có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên thì kỳ tính thuế được tính theo năm dương lịch.
Trường hợp trong năm dương lịch, cá nhân có mặt tại Việt Nam dưới 183 ngày nhưng tính trong 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam là từ 183 ngày trở lên thì kỳ tính thuế đầu tiên được xác định là 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam. Từ năm thứ hai, kỳ tính thuế căn cứ theo năm dương lịch…”.
Tại Điểm e.2, Khoản 2, Điều 26 Thông tư số 111/2013/TT-BTC quy định:
“e.2) Cá nhân cư trú có thu nhập từ kinh doanh, thu nhập từ tiền lương, tiền công trong trường hợp số ngày có mặt tại Việt Nam tính trong năm dương lịch đầu tiên là dưới 183 ngày, nhưng tính trong 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam là từ 183 ngày trở lên.
- Năm tính thuế thứ nhất: khai và nộp hồ sơ quyết toán thuế chậm nhất là ngày thứ 90 kể từ ngày tính đủ 12 tháng liên tục.
- Từ năm tính thuế thứ hai: khai và nộp hồ sơ quyết toán thuế chậm nhất là ngày thứ 90 kể từ ngày kết thúc năm dương lịch. Số thuế còn phải nộp trong năm tính thuế thứ 2 được xác định như sau:
Số thuế còn phải nộp năm tính thuế thứ 2= Số thuế phải nộp của năm tính thuế thứ 2 - Số thuế tính trùng được trừ
Trong đó:
Số thuế phải nộp của năm tính thuế thứ 2 = Thu nhập tính thuế của năm tính thuế thứ 2 x Thuế suất thuế TNCN theo Biểu lũy tiến từng phần
Số thuế tính trùng được trừ = Số thuế phải nộp trong năm tính thuế thứ nhất/12 x Số tháng tính trùng
Căn cứ theo các quy định nêu trên, trường hợp người lao động nước ngoài đến Việt Nam làm việc từ tháng 7/2015, trong năm tính thuế đầu tiên (từ tháng 7/2015 đến tháng 6/2016) có mặt trên 183 ngày thì được xác định là cá nhân cư trú tại Việt Nam, khi quyết toán thuế TNCN năm tính thuế đầu tiên thì áp dụng theo Biểu thuế lũy tiến từng phần.
Năm tính thuế thứ hai (từ 1/1/2016 đến 31/12/2016) nếu người lao động đủ điều kiện là cá nhân cư trú tại Việt Nam thì được áp dụng theo Biểu thuế lũy tiến từng phần và số thuế TNCN phải nộp được xác định theo quy định tại Điểm e.2, Khoản 2, Điều 26 Thông tư số 111/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính.