Bộ Tài chính đang lấy ý kiến đóng góp rộng rãi về dự án Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT) sửa đổi. Tại dự án Luật, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm mở rộng cơ sở thu thuế, chống gian lận, thất thu thuế GTGT, đảm bảo thu đúng thu đủ vào ngân sách nhà nước. Đồng thời, sửa đổi bất cập trong quy định hiện hành để bảo đảm tính minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện Luật.
Khắc phục những vướng mắc hiện hành
Ngày 03/6/2008, Quốc hội thông qua Luật thuế GTGT số 13/2008/QH12 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009 thay thế cho Luật thuế GTGT năm 1997 và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT năm 2003, năm 2005. Sau đó, để khắc phục những bất cập phát sinh trong thực tiễn, Luật thuế GTGT đã được sửa đổi, bổ sung ba lần vào các năm 2013, 2014 và 2016.
Theo Bộ Tài chính, qua quá trình triển khai thực hiện, Luật thuế GTGT đã đi vào cuộc sống, tác động tích cực đến nhiều mặt kinh tế - xã hội và đã đạt được mục tiêu đề ra khi ban hành Luật.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, do sự biến động nhanh của kinh tế - chính trị thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng, cũng như qua thực hiện triển khai, chính sách thuế GTGT đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế.
Theo đó, Luật thuế GTGT có điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, với nguyên tắc của thuế GTGT, một số quy định còn phức tạp, không thuận lợi trong quá trình thực hiện, gây vướng mắc cho cả cơ quan thuế và người nộp thuế. Luật hiện nay cũng chưa có những quy định để xác định đúng cơ chế thu đối với một số loại hàng hóa phát sinh theo sự phát triển của kinh tế thị trường.
Hiện nay, đối tượng không chịu thuế GTGT còn nhiều nên chưa bao quát hết các nguồn thu; doanh thu bán hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT có mức từ 100 triệu đồng trở xuống/năm cần phải nghiên cứu điều chỉnh cho phù hợp với thực tế; đối tượng chịu thuế GTGT thuế suất 5% còn nhiều; mức thuế suất phổ thông 10% cần phải nghiên cứu điều chỉnh cho phù hợp trong quá trình chuyển đổi, tái cơ cấu nền kinh tế hiện nay; quy định về giá tính thuế GTGT đối với hoạt động kinh doanh bất động sản còn có cách hiểu khác nhau giữa người nộp thuế và cơ quan thuế.
Bên cạnh đó, quy định về khấu trừ thuế GTGT đầu vào cần phải chặt chẽ hơn nữa để góp phần ngăn chặn gian lận trong khấu trừ, hoàn thuế GTGT, chống thất thu ngân sách. Đồng thời, cần phải nghiên cứu sửa đổi một số thủ tục hoàn thuế để tạo điều kiện hơn nữa cho doanh nghiệp đầu tư, đổi mới công nghệ, thông qua đó tăng năng suất lao động, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Bộ Tài chính cho biết, những nội dung nêu trên là yêu cầu của thực tiễn cần phải sửa đổi, bổ sung Luật thuế GTGT để giải quyết những bất cập phát sinh trong quá trình thực hiện nhằm đáp ứng với yêu cầu quản lý kinh tế - xã hội và quản lý thuế, phù hợp với mục tiêu cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo môi trường đầu tư thông thoáng, hỗ trợ sản xuất kinh doanh phát triển; phù hợp với bối cảnh hội nhập, xu hướng phát triển kinh tế của các nước trên thế giới.
Sửa đổi, bổ sung chính sách đảm bảo thống nhất, chống gian lận thuế
Tại Dự án Luật, Bộ Tài chính đề xuất mở rộng cơ sở thuế. Theo đó, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 5 để thu hẹp đối tượng không chịu thuế GTGT (chuyển một số hàng hóa, dịch vụ sang đối tượng chịu thuế 5% hoặc 10%); nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Điều 8 Luật thuế GTGT để thu hẹp đối tượng chịu thuế 5% (chuyển một số dịch vụ sang đối tượng chịu thuế 10%).
Bộ Tài chính cũng đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định để đảm bảo tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính. Trong đó, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định tại các Điều 5, 7, 8, 12 và Điều 13 Luật thuế GTGT để sửa đổi, bổ sung một số quy định về: đối tượng không chịu thuế, giá tính thuế, thuế suất, điều kiện khấu trừ thuế đầu vào và hoàn thuế để có cơ sở pháp lý giải quyết các vướng mắc phát sinh trong thời gian qua.
Trong đó, về giá tính thuế, Luật thuế GTGT hiện hành quy định giá tính thuế GTGT đối với hoạt động kinh doanh bất động sản “là giá bán bất động sản chưa có thuế GTGT, trừ giá chuyển quyền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất phải nộp ngân sách nhà nước”. Tuy nhiên, quy định này còn có cách hiểu khác nhau.
Bộ Tài chính cho biết, nhiều doanh nghiệp kinh doanh bất động sản không thực hiện kê khai, nộp thuế GTGT trên phần chênh lệch giữa giá bán và tiền sử dụng đất thực tế nộp vào NSNN vì cho rằng hoạt động chuyển quyền sử dụng đất thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT.
Tuy nhiên, theo quy định tại Luật kinh doanh bất động sản và quy định tại Luật thuế GTGT, doanh nghiệp chỉ được trừ giá chuyển quyền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất phải nộp NSNN. Theo đó, để đảm bảo chính sách rõ ràng, minh bạch, tránh vướng mắc trong thực hiện, cần nghiên cứu quy định cụ thể giá tính thuế GTGT đối với hoạt động kinh doanh bất động sản.
Về thuế suất, để khuyến khích hoạt động xuất khẩu hàng hóa, cũng như phát triển du lịch, Bộ Tài chính đề xuất nghiên cứu bổ sung quy định đối với hàng hóa bán tại khu vực cách ly, hàng bán tại cửa hàng miễn thuế thuộc đối tượng áp dụng thuế suất 0% và hướng dẫn điều kiện và thủ tục được áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% cho phù hợp.
Về khấu trừ thuế GTGT đầu vào, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định về khấu trừ thuế GTGT đầu vào trong trường hợp người nộp thuế phát hiện hồ sơ khai thuế có sai, sót. Đồng thời, để góp phần minh bạch hóa các giao dịch mua bán của doanh nghiệp, thúc đẩy phát triển giao dịch thanh toán qua ngân hàng, góp phần ngăn chặn gian lận trong việc khấu trừ, hoàn thuế GTGT và phòng chống rửa tiền, Bộ Tài chính cũng đề xuất nghiên cứu sửa đổi quy định về định mức hàng hóa, dịch vụ mua từng lần từ mức dưới 20 triệu đồng xuống mức phù hợp...
Để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, tại Dự án Luật, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 5 và Điều 7 Luật thuế GTGT để sửa đổi, bổ sung một số quy định về đối tượng không chịu thuế và giá tính thuế để đồng bộ với quy định của các luật khác có liên quan như: Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Luật thuế Tiêu thụ đặc biệt (TTĐB); Luật Trồng trọt; Luật Chứng khoán.
Để đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế và xu hướng phát triển, Bộ Tài chính cũng đề xuất nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 8 Luật thuế GTGT để sửa đổi, bổ sung quy định về thuế suất đối với dịch vụ xuất khẩu để tránh vướng mắc trong thực hiện; nghiên cứu áp dụng mức thuế suất phổ thông phù hợp.
Theo Bộ Tài chính, qua tham khảo kinh nghiệm quốc tế cho thấy, xu hướng các nước phát triển và các nước đang phát triển đều thực hiện cơ cấu lại thu NSNN là tăng cường vai trò của thuế GTGT. Số lượng quốc gia áp dụng thuế GTGT/thuế hàng hóa và dịch vụ ngày càng tăng, từ khoảng 140 nước năm 2004 lên 160 nước năm 2014, 166 nước năm 2016, 195 nước năm 2020, với xu thế phổ biến là tăng mức thuế suất GTGT.
Bộ Tài chính đề xuất trình Chính phủ dự kiến tiến độ của dự án Luật thuế GTGT sửa đổi như sau: Chính phủ lập đề nghị xây dựng dự án Luật thuế GTGT sửa đổi, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo Quốc hội thông qua đề nghị bổ sung dự án Luật thuế GTGT sửa đổi vào Chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh năm 2023 tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XV (tháng 10/2023); Chính phủ trình Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật thuế GTGT sửa đổi tại Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XV (tháng 5/2024); Chính phủ trình Quốc hội thông qua dự án Luật thuế GTGT sửa đổi tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XV (tháng 10/2024).