Hợp đồng uỷ quyền là hình thức pháp lý của quan hệ đại diện theo uỷ quyền, là cơ sở pháp lý cho việc xác lập thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ uỷ quyền. Hiện nay, pháp luật về hợp đồng uỷ quyền của Việt Nam từng bước được hoàn thiện nhưng vẫn còn những hạn chế, bất cập. Nghiên cứu này đánh giá tổng quan những quy định pháp luật về hợp đồng uỷ quyền, qua đó đề xuất giải pháp để hoàn thiện pháp luật về hợp đồng ủy quyền.
Đặt vấn đề
Thời gian gần đây, cùng với việc mở cửa nền kinh tế, các giao dịch về dân sự, thương mại diễn ra ngày càng nhiều. Trong đó, những giao dịch thông qua người đại diện uỷ quyền chiếm một số lượng lớn.
Đa số các quy định của pháp luật về hợp đồng ủy quyền đã tạo điều kiện để tất cả người dân có thể tham gia vào loại giao dịch này, từ việc vận dụng các quy định về hợp đồng ủy quyền để giải quyết các công việc trong đời sống sinh hoạt, trong nội bộ của các cơ quan, tổ chức cho đến việc áp dụng để thực hiện các hoạt động kinh doanh, giao dịch dân sự… Tuy nhiên, do sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội, pháp luật về hợp đồng uỷ quyền của Việt Nam còn có những hạn chế, bất cập tác động tiêu cực đến các quan hệ xã hội làm phát sinh những tranh chấp.
Để góp phần hoàn thiện những quy định của pháp luật về hợp đồng ủy quyền và khắc phục những bất cập trong quá trình thực hiện hợp đồng thì việc nghiên cứu làm sáng tỏ những quy định của pháp luật là rất quan trọng. Việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng uỷ quyền ở Việt Nam là cần thiết.
Hệ thống pháp luật liên quan đến hợp đồng ủy quyền
Thứ nhất, liên quan đến hình thức xác lập uỷ quyền bằng hợp đồng uỷ quyền hay giấy uỷ quyền.
Nghị định số 23/2015/NĐ-CP cho phép chứng thực chữ ký trong Giấy ủy quyền tham gia tố tụng nếu thuộc trường hợp ủy quyền không có thù lao, không có nghĩa vụ bồi thường của bên được ủy quyền và không liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng bất động sản nhưng Thông tư số 01/2020/TT-BTP ngày 3/3/2022 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch chỉ cho phép chứng thực chữ ký trên Giấy uỷ quyền trong 4 trường hợp nêu tại Điều 14 Thông tư này. Cụ thể đó là: Ủy quyền về việc nộp hộ, nhận hộ hồ sơ, giấy tờ, trừ trường hợp pháp luật quy định không được ủy quyền; Ủy quyền nhận hộ lương hưu, bưu phẩm, trợ cấp, phụ cấp; Ủy quyền nhờ trông nom nhà cửa; Ủy quyền của thành viên hộ gia đình để vay vốn tại Ngân hàng chính sách xã hội.
Rõ ràng, quy định tại Điều 14 Thông tư số 01/2020/TT-BTP không những chưa phù hợp với Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 mà còn thiếu thống nhất với văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành có hiệu lực pháp lý cao hơn là Nghị định số 23/2015/NĐ-CP. Theo nguyên tắc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật thì trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn. Trong trường hợp này, Nghị định số 23/2015/NĐ-CP phải được ưu tiên áp dụng, đương sự được quyền chứng thực chữ ký trên Giấy uỷ quyền để uỷ quyền tham gia tố tụng nếu có nhu cầu chứng thực.
Tuy nhiên, trên thực tế các tổ chức, cơ quan có thẩm quyền công chứng, chứng thực lại không chứng thực chữ ký trên Giấy uỷ quyền tham gia tố tụng do sợ sai với Thông tư hướng dẫn của Bộ Tư pháp. Vướng mắc này đến nay vẫn chưa được tháo gỡ. Điều này dẫn đến một bất cập là Tòa án vẫn chấp nhận Giấy ủy quyền tham gia tố tụng, nhưng các tổ chức, cơ quan có thẩm quyền công chứng, chứng thực lại không thực hiện thủ tục chứng thực chữ ký trên Giấy ủy quyền tham gia tố tụng.
Do sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội, pháp luật về hợp đồng uỷ quyền của Việt Nam còn có những hạn chế, bất cập tác động tiêu cực đến các quan hệ xã hội làm phát sinh những tranh chấp. Để góp phần hoàn thiện những quy định của pháp luật về hợp đồng ủy quyền và khắc phục những bất cập trong quá trình thực hiện hợp đồng thì việc nghiên cứu làm sáng tỏ những quy định của pháp luật là rất quan trọng.
Thứ hai, liên quan đến vấn đề đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền.
Điều 569 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền, theo đó việc chấm dứt hợp đồng ủy quyền được chia ra trong hai trường hợp: Trường hợp ủy quyền có thù lao và trường hợp ủy quyền không có thù lao. Trong cả hai trường hợp, bên ủy quyền và bên nhận ủy quyền đều có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền bất cứ lúc nào nhưng kèm theo các điều kiện khác nhau.
Đạo luật gốc của ngành luật dân sự quy định rõ ràng như vậy nhưng tại Điều 51 Luật Công chứng 2014 quy định công chứng việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch như sau: “Việc công chứng sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch đã được công chứng chỉ được thực hiện khi có sự thỏa thuận, cam kết bằng văn bản của tất cả những người đã tham gia hợp đồng, giao dịch đó”. Như vậy, hợp đồng ủy quyền được công chứng cũng không loại trừ việc các bên muốn chấm dứt hợp đồng ủy quyền phải đến tổ chức công chứng đã công chứng hợp đồng ủy quyền đó để cùng ký vào văn bản hủy mới hủy được hợp đồng ủy quyền.
Quy định trên của Luật công chứng, một văn bản pháp luật chuyên ngành trong lĩnh vực dân sự đã đương nhiên tước bỏ quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền nói riêng của các bên tham gia giao dịch được ghi nhận trong đạo luật gốc của lĩnh vực dân sự - Bộ luật dân sự. Quy định không thống nhất giữa Bộ luật Dân sự và Luật Công chứng đã dẫn đến không ít khó khăn khi áp dụng trên thực tế.
Một số ít tổ chức hành nghề công chứng chấp nhận việc đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền của bên nhận ủy quyền hoặc bên ủy quyền, chỉ cần họ xuất trình chứng cứ chứng minh đã thông báo việc chấm dứt ủy quyền của mình cho bên kia. Đại đa số các tổ chức công chứng chỉ chấp nhận việc chấm dứt hợp đồng ủy quyền khi cả hai bên cùng ký vào Văn bản thỏa thuận chấm dứt hợp đồng ủy quyền.
Thứ ba, liên quan đến trường hợp hợp đồng ủy quyền chấm dứt khi một trong các bên trong hợp đồng ủy quyền chết.
Với quy định về trường hợp một trong các bên trong hợp đồng ủy quyền chết thì hợp đồng ủy quyền chấm dứt, quy định này cũng chưa đi đến tận cùng để giải quyết triệt để vấn đề và bảo vệ tối đa quyền lợi của các bên. Lý do nhiều trường hợp các bên không thể biết được bên kia đã chết nếu không có sự thông báo của người khác hoặc trường hợp một bên đã biết bên còn lại đã chết nhưng muốn giấu để tiếp tục thực hiện xong công việc như ủy quyền (đặc biệt là ủy quyền liên quan đến bất động sản). Bên cạnh đó, chưa có quy định nào về giải quyết vấn đề khi một trong các bên trong hợp đồng ủy quyền chết thì bên kia phải có cách xử lý như thế nào để bảo vệ được quyền lợi của các bên trong quan hệ ủy quyền.
Thứ tư, liên quan đến tình trạng hợp đồng ủy quyền giả tạo diễn ra trên thực tế.
Thực tế thời gian qua cho thấy, giao dịch ủy quyền là một trong số các giao dịch có tính rủi ro cao, thường bị nhầm lẫn hay lạm dụng để che giấu một giao dịch khác. Hàng loạt vụ lừa đảo vay tiền, thế chấp nhà thông qua hình thức giao dịch ủy quyền bán nhà mà báo chí nêu lên trong thời gian qua mới chỉ là bề nổi của tình trạng lạm dụng hình thức ủy quyền; hay như việc bán nhà nhưng lại được các bên thỏa thuận lập dưới dạng ủy quyền, khi giá thị trường có biến động mạnh thì thường dẫn đến tranh chấp hợp đồng. Việc làm trên của các bên che giấu bản chất thực của giao dịch, làm mất đi tính tự nguyện của giao dịch, làm cho nội dung ủy quyền không phản ánh trung thực sự thật khách quan, từ đó, việc văn bản ủy quyền mất đi tính xác thực, tính hợp pháp và dễ bị tranh chấp là không tránh khỏi.
Hiện nay, khi tiến hành mua bán bất động sản, không phải trong mọi trường hợp các bên đều thỏa thuận giao dịch thông qua hợp đồng mua bán được công chứng, chứng thực. Vì nhiều lý do, thông thường là bên mua nhà chưa đủ điều kiện được sở hữu nhà tại Việt Nam; nhà chưa đủ điều kiện để bán theo Điều 118 Luật nhà ở 2014; nhằm mục đích trốn thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước... các bên thỏa thuận lập hợp đồng ủy quyền nhằm che giấu giao dịch mua bán bất động sản. Theo đó, các bên sẽ tiến hành lập song song hai hợp đồng: hợp đồng mua bán bất động sản và hợp đồng ủy quyền. Nội dung hợp đồng mua bán bất động sản sẽ nêu rõ đặc điểm bất động sản, giá cả, phương thức thanh toán, đặt cọc, quyền và nghĩa vụ của các bên...
Tuy nhiên, hợp đồng này sẽ không được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật Việt Nam. Thay vào đó, để hợp pháp hóa việc chuyển giao bất động sản, các bên lập thêm hợp đồng ủy quyền, trong đó, bên bán giữ vai trò bên ủy quyền, ủy quyền cho bên mua – giữ vai trò bên được ủy quyền – toàn quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt bất động sản. Hợp đồng ủy quyền này sẽ giúp các bên chuyển giao “quyền sở hữu” từ bên bán (bên ủy quyền) sang bên mua (bên được ủy quyền) vì bằng hợp đồng ủy quyền, bên được ủy quyền sẽ hưởng mọi quyền của một chủ sở hữu tài sản theo pháp luật Việt Nam (quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản). Để bảo đảm tính xác thực của hợp đồng, hai bên tiến hành công chứng, chứng thực hợp đồng ủy quyền tại ủy ban nhân dân xã, phường hoặc các văn phòng công chứng.
Sau khi hoàn tất mọi thủ tục đối với hợp đồng ủy quyền nói trên, các bên an tâm về tính pháp lý của giao dịch vì cơ quan công chứng hoặc chứng thực đã xác thực việc hưởng mọi quyền của một chủ sở hữu bất động sản đối với bên được ủy quyền. Thế nhưng, trên thực tế, hợp đồng ủy quyền sẽ mang đến không ít rủi ro cho các bên tham gia trong hợp đồng.
Giải pháp hoàn thiện pháp luật liên quan đến hợp đồng ủy quyền
Thời gian tới, nhằm hoàn thiện pháp luật liên quan đến hợp đồng ủy quyền, cần chú trọng triển khai một số nội dung sau:
Thứ nhất, quy định cụ thể hơn về hình thức của xác lập uỷ quyền bằng hợp đồng uỷ quyền hay giấy uỷ quyền.
Đã có sự chênh nhau trong quy định của pháp luật và thực tế áp dụng, thực hiện pháp luật liên quan đến hình thức của văn bản uỷ quyền tham gia tố tụng. Để bảo đảm thủ tục uỷ quyền là minh bạch, thống nhất và để bảo đảm văn bản uỷ quyền tham gia tố tụng là đáng tin cậy, hạn chế những rủi ro cho chính các đương sự do hành vi giả mạo uỷ quyền gây ra, theo tác giả, cần thay đổi một số nội dung sau:
Bãi bỏ hiệu lực của Điều 14 Thông tư số 01/2020/TT-BTP ngày 03/3/2020 của Bộ Tư pháp: Điều Luật có nội dung trái với Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ, làm hạn chế quyền lựa chọn hình thức văn bản uỷ quyền của đương sự.
Nếu công việc được uỷ quyền liên quan đến một nghĩa vụ của người uỷ quyền thì hai bên phải lập thành hợp đồng uỷ quyền. Để khắc phục tình trạng việc uỷ quyền có thù lao, có nghĩa vụ bồi thường của bên được uỷ quyền hoặc để chuyển quyền sở hữu quyền sử dụng bất động sản phải được lập thành hợp đồng. Việc uỷ quyền không thuộc những trường hợp trên thì không cần phải lập thành hợp đồng uỷ quyền, mà có thể lập giấy uỷ quyền và chỉ cần người uỷ quyền ký tên vào giấy uỷ quyền. Trong khi đó, Luật Công chứng không quy định vấn đề này.
Thứ hai, hoàn thiện quy định về đơn phương chấm dứt hợp đồng uỷ quyền.
Để các quy định về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền của Bộ luật dân sự được hiện thực hóa, yêu cầu đặt ra là các nhà làm luật cần phải có sự chỉnh sửa để thống nhất giữa các quy định của luật chung (Bộ luật dân sự) và luật chuyên ngành (Luật công chứng). Đồng thời, khi thực hiện hợp đồng ủy quyền cũng cần cẩn thận trong việc lựa chọn người ủy quyền, đó nên là người tin tưởng, nhân phẩm tốt để không gây ảnh hưởng đến quyền lợi của mình. Bên cạnh đó, nội dung hợp đồng ủy quyền nên có các quy định cụ thể về việc hủy hợp đồng ủy quyền và trách nhiệm của các bên. Từ đó hạn chế được việc đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền.
Thứ ba, giải quyết vấn đề trường hợp một trong các bên tham gia hợp đồng ủy quyền chết.
Cần bổ sung thêm quy định để làm rõ trong trường hợp một trong các bên tham gia hợp đồng ủy quyền chết thì trách nhiệm của bên còn lại và những người liên quan sẽ như thế nào để có thể bảo vệ được quyền và lợi ích của tất cả các bên tham gia vào quan hệ ủy quyền. Trong trường hợp bên ủy quyền chết thì những người thừa kế của bên ủy quyền phải báo cho bên nhận ủy quyền biết về cái chết.
Nếu như việc chấm dứt ngay hợp đồng ủy quyền sẽ làm thiệt hại đến lợi ích của bên ủy quyền thì bên nhận ủy quyền phải tiếp tục thực hiện hợp đồng ủy quyền cho đến khi người thừa kế của bên ủy quyền có thể tiếp nhận lại việc bên ủy quyền đã ủy quyền. Trường hợp bên nhận ủy quyền chết thì những người thừa kế của bên nhận ủy quyền phải thông báo cho bên ủy quyền biết về cái chết, và trường hợp nếu chấm dứt ngay hợp đồng ủy quyền sẽ làm thiệt hại đến lợi ích của bên ủy quyền thì những người thừa kế của bên nhận ủy quyền phải tiếp tục thực hiện các công việc mà bên nhận ủy quyền đang thực hiện dở cho đến khi bên ủy quyền ủy quyền công việc đó cho người khác hoặc trực tiếp thực hiện công việc đã ủy quyền.
Thứ tư, xây dựng cơ sở pháp lý để hạn chế tình trạng hợp đồng ủy quyền giả tạo diễn ra trên thực tế.
Thực tiễn cho thấy, phạm vi ủy quyền do các bên tự thỏa thuận nên nhiều người đã lợi dụng quan hệ ủy quyền trong việc định đoạt tài sản để chiếm đoạt tài sản người khác một cách dễ dàng hoặc che đậy quan hệ chuyển nhượng nhằm trốn thuế, gây thiệt hại cho nguồn thu ngân sách Nhà nước.
Thực trạng này diễn ra phổ biến trong lĩnh vực bất động sản như ủy quyền mua bán, thế chấp nhà ở, quyền sử dụng đất, ủy quyền giao dịch chứng khoán. Đồng thời người dân cũng chưa có hiểu biết đầy đủ, chưa có nhận thức sâu sắc những quy định pháp luật về hợp đồng ủy quyền nên họ sẵn sàng chấp nhận tham gia vào quan hệ ủy quyền mà không lường trước được những rủi ro khi người khác lợi dụng hợp đồng ủy quyền để trục lợi.
Do hành lang pháp lý còn thiếu quy định điều chỉnh các quan hệ tồn tại trên thực tế, nhiều quy định còn chưa phù hợp, chưa đáp ứng được hết yêu cầu cuộc sống đặt ra, vì vậy, hiện tượng “lách luật”, hay lạm dụng các quy định của pháp luật, trong đó có việc lạm dụng hợp đồng ủy quyền để sử dụng dưới hình thức hợp đồng ủy quyền giả tạo để đạt được những mục đích nhất định xảy ra trên thực tế là không thể khắc phục triệt để mà chỉ có thể hạn chế.
Để hạn chế tình trạng giao kết hợp đồng ủy quyền giả tạo trên thực tế, nhà làm luật cần bổ sung những quy định mới về nghĩa vụ xác định rõ những công việc ủy quyền, phạm vi ủy quyền cụ thể trong nội dung hợp đồng ủy quyền; trường hợp có cơ sở xác định việc các bên sử dụng hợp đồng ủy quyền để che giấu một giao dịch khác cần có chế tài áp dụng và có các quy định hạn chế thực hiện việc công chứng những trường hợp nêu trên tại các tổ chức hành nghề công chứng nhằm mục đích hạn chế việc xác lập hợp đồng ủy quyền giả tạo vào trong các văn bản quy phạm pháp luật để có cơ sở áp dụng thống nhất và có giá trị pháp lý cao.
Kết luận
Thực tiễn công chứng hợp đồng uỷ quyền cho thấy, việc thực hiện quy định của pháp luật cũng còn nhiều bất cập và khó khăn, vướng mắc như trong việc xác lập hình thức uỷ quyền, việc đơn phương chấm dứt hợp đồng uỷ quyền, giải quyết trường hợp một trong các bên tham gia hợp đồng uỷ quyền chết, tình trạng hợp đồng uỷ quyền giả tạo diễn ra trên thực tế,… Vì vậy, hoạt động của người đại diện theo uỷ quyền trong các giao dịch dân sự khi thực hiện quyền của mình còn nhiều hạn chế.
Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên chủ yếu do bất cập của các quy định pháp luật về hợp đồng uỷ quyền gây ra không ít những khó khăn cho các bên trong quan hệ hợp đồng ủy quyền thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình, phần khác do sự thiếu hiểu biết của người dân về vấn đề này. Điều này đã dẫn đến nhiều tranh chấp về hợp đồng uỷ quyền xảy ra ngày càng nhiều trên thực tế xã hội hiện nay.
Xuất phát từ thực trạng và yêu cầu nâng cao vai trò của hợp đồng uỷ quyền trong cuộc sống, bài viết đã đưa ra một số đề xuất có giá trị tham khảo cho việc hoàn thiện và thực hiện pháp luật về hợp đồng uỷ quyền.